-
Bộ Pyjama này anh chưa mặc, còn mới cáu cạnh, mời em khai trương.
Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Sunday, April 6, 2025
Thôi! Mình Về Linh Xuân Thôn Đi Em ! - Phan Công Tôn
Một Chuyến Bay Bình Thường Nhưng Mang Theo Câu Chuyên Không Tầm Thường
Margaret vừa yên vị trong khoang hạng thương gia của chuyến bay từ Los Angeles đến Boston thì một sự huyên náo ở vài hàng ghế phía trước thu hút sự chú ý của tất cả mọi người.
“Tôi không chấp nhận ngồi cạnh bà ta!”
Một người đàn ông tên Henry gắt gỏng với tiếp viên, chỉ thẳng vào Margaret bằng ánh mắt khinh miệt.
“Thưa ông, đây là chỗ ngồi của bà ấy, chúng tôi không thể thay đổi,” tiếp viên đáp lại dứt khoát.
Henry nhíu mày,
liếc nhìn bộ quần áo giản dị của Margaret.
Margaret, một cụ bà
ngoài 80, ngồi im lặng, đôi bàn tay run run nắm chặt chiếc túi nhỏ khi những
tiếng xì xào vang lên quanh mình. Những hành khách khác bắt đầu ngoảnh lại
nhìn.
Cảm thấy xấu hổ nhưng vẫn điềm tĩnh, bà nghiêng người về phía tiếp viên và nói nhẹ nhàng:
“Nếu làm mọi chuyện dễ dàng hơn, tôi có thể chuyển xuống khoang phổ thông. Tôi đã dành dụm cả đời mới có thể mua vé này, nhưng tôi không muốn gây phiền phức.”
Tiếp viên lắc đầu kiên quyết.
“Không, thưa bà, bà đã trả tiền cho chỗ ngồi này và có đầy đủ quyền lợi ở đây. Xin hãy yên vị.”
Cô quay sang Henry, giọng nghiêm khắc:
“Thưa ông, nếu ông
không bình tĩnh lại, chúng tôi sẽ phải báo cáo hành vi này.” Henry lầm bầm khó
chịu nhưng cuối cùng cũng chịu ngồi xuống.
Margaret điều chỉnh lại túi xách và quay mặt ra cửa sổ, mong cơn hỗn loạn này nhanh chóng qua đi. Đây là lần đầu tiên bà đi máy bay, và mọi thứ đã quá sức choáng ngợp. Khi máy bay cất cánh, Margaret vô tình làm rơi túi. Bất ngờ thay, chính Henry cúi xuống giúp bà nhặt lại.
Ông nhặt lên một chiếc mặt dây chuyền bằng vàng nhỏ bé lăn ra từ túi, ngắm nhìn một lát trước khi đưa lại cho bà. “Chiếc locket này thật đẹp,” ông nói, giọng điệu đã dịu đi.
“Tôi làm nghề thẩm
định đồ cổ nhiều năm rồi, và món đồ này rất có giá trị.”
Margaret mỉm cười nhạt nhòa khi nhận lại kỷ vật.
“Không phải theo cách ông nghĩ,” bà nói. “Nó là món quà cha tôi tặng mẹ trước khi ra trận. Ông ấy đã không trở về, và nó trở thành thứ quý giá nhất của mẹ tôi. Khi tôi còn nhỏ, bà đã truyền lại nó cho tôi. Đây là ký ức mà không có tiền bạc nào có thể mua được.”
Bà mở mặt dây chuyền ra, bên trong là hai bức ảnh nhỏ.
“Đây là cha mẹ tôi,” bà nói, chỉ vào một bức ảnh.
Sau đó, với một nụ cười đầy hoài niệm, bà chỉ vào bức còn lại.
“Và đây là con trai tôi.”
Henry nhướn mày.
“Con trai bà? Bà đến Boston để thăm cậu ấy sao?”
Margaret ngập ngừng trước khi trả lời.
“Không hẳn. Tôi đã phải cho con đi làm con nuôi khi nó còn bé. Khi ấy, tôi không đủ khả năng để nuôi dưỡng nó. Gần đây, tôi tìm lại được nó qua xét nghiệm DNA, nhưng nó không muốn gặp tôi. Nó nói rằng nó đã có cuộc sống riêng và không cần tôi xuất hiện trong đó.”
Henry cau mày.
“Thật khó khăn. Nếu nó không muốn gặp bà, tại sao bà vẫn lên chuyến bay này?”
Đôi mắt Margaret long lanh, nhưng giọng bà vẫn vững vàng.
“Hôm nay là sinh nhật của nó. Nó là cơ trưởng của chuyến bay này. Tôi chỉ muốn được gần nó, dù nó không biết tôi ở đây.”
Henry chết lặng. Một tiếp viên đứng gần đó, đã nghe được toàn bộ câu chuyện, vội vàng rời đi.
Vài phút sau, giọng nói từ loa phát thanh vang lên.
“Kính thưa quý khách,
đây là cơ trưởng của chuyến bay. Hôm nay, tôi muốn gửi lời chào đặc biệt đến
một hành khách đáng kính – mẹ ruột của tôi, người đang bay lần đầu tiên trong
đời. Mẹ, cảm ơn mẹ vì đã luôn yêu con, dù từ rất xa. Xin mẹ hãy đợi con khi hạ
cánh.”
Tiếng xì xào vang lên khắp khoang, rồi nhường chỗ cho những tràng pháo tay rời rạc nhưng chân thành.
Margaret run rẩy đưa tay lau những giọt nước mắt. Henry, tràn đầy hối lỗi, nắm lấy tay bà.
“Tôi xin lỗi vì đã đối xử với bà như vậy,” ông nói thật lòng. “Bà là một người mẹ tuyệt vời.”
Khi máy bay hạ cánh, hành khách dõi theo khoảnh khắc khi cơ trưởng bước ra từ buồng lái và tiến thẳng đến Margaret. Không chần chừ, anh ôm lấy bà thật chặt. Những tràng vỗ tay bùng lên khắp cabin.
“Cảm ơn mẹ vì đã yêu con đủ nhiều để cho con một cuộc sống tốt đẹp,” anh thì thầm.
Margaret siết chặt con trai, giọng bà vỡ òa:
“Con xứng đáng có được điều tốt nhất, và mẹ chưa bao giờ ngừng nghĩ về con.”
Henry đứng lặng lẽ, lòng trĩu nặng vì điều mà ông từng phán xét quá vội vàng.
Chuyến bay này, khởi
đầu bằng sự định kiến, đã trở thành một khoảnh khắc đầy nhân văn về sự gắn kết
và tha thứ. Nhưng với Margaret, nó còn hơn cả một chuyến bay – đây là sự khởi
đầu mà bà đã mong đợi suốt hơn 60 năm qua.
(Theo Facebook Plutos
Sale PM Chien )
Saturday, April 5, 2025
Giup Cha Mẹ Vui Tuổi Già - BS. Đỗ Hồng Ngọc
Đợi cha mẹ già vào bệnh viện,
đặt ống nội khí quản giúp thở, truyền đạm truyền dịch chai dưới chai trên, bơm
thức ăn qua ống thông dạ dày, dây nhợ chằng chịt khắp người theo dõi nhịp tim
nhịp thở, thuốc men không ngại tốn kém… sẵn sàng bán nhà bán cửa chữa chạy,
“còn nước còn tát”!
Thế
nhưng khi cha mẹ già đang sờ sờ bên cạnh thì bận bịu trăm công ngàn việc, không
có chút thì giờ để hỏi han, chăm sóc…
Một
ông bố viết cho con:
“… Người
già sợ nhất cảnh cô đơn nên nếu các con đã hiểu thì hãy thương cho tròn. Tình
thương ấy không đánh đổi bằng tấm ngân phiếu kếch xù hay quà bánh đắt tiền mà
chính là… thời gian. Một lúc nào đó trong ngày mà các con thấy trống vắng thừa
thãi thì hãy mang đến tặng Bố giờ phút vô nghĩa ấy! Bản chất nó vô giá nhưng lại
vô cùng quý báu nếu chia sẻ đúng đối tượng…
Con dư biết, sáng chiều Bố lủi thủi hết ngồi lại nằm, cô đơn bên cạnh một người trả công chỉ biết im lặng canh chừng. Nếu con đến thăm, nhớ bỏ hết công việc và lo toan ở ngoài xe trước khi vào nhà, tránh cảnh thân tâm mỗi chỗ mỗi nơi để cha con sống thật những kỷ niệm cuối đời bên nhau. Người già như Bố đương nhiên ăn nói sẽ không còn mạch lạc hấp dẫn, xin con đừng nhăn nhó… Hãy nhẫn nại ngồi nghe như thuở nuôi con còn bé, Bố đã từng chăm chú theo dõi tiếng con bi bô học nói… lặp đi lặp lại nhiều lần một chữ từ ngày này qua ngày nọ liên hồi…”. (Internet).
Có một cách giúp biết khi
nào cha mẹ đã… bước vào tuổi già ấy là “lén” quan sát họ có những dấu hiệu bất
thường nào về tâm lý, về sức khỏe của lứa tuổi già chưa. Nhưng biết là để
quan tâm, chăm sóc, can thiệp kịp thời thôi chớ không phải để “dán nhãn” cho họ
đã già nua, lỗi thời, rồi không để họ còn có chút độc lập tự do gì nữa thì rất
không nên!
Họ
có lơ là quá đáng chuyện ăn mặc không? Xưa áo quần thẳng thớm, nay xốc xếch, xộc
xệch, đứt nút, rách bâu mặc kệ? Họ có lơ là quá đáng việc chăm sóc bản thân
mình không? Chẳng buồn tắm rửa, hớt tóc cạo râu, tóc tai bù xù mặc kệ. Trí nhớ
họ còn tốt không hay quên trước quên sau, lặp đi lặp lại hoài một chuyện? Họ có
loay hoay tìm kiếng lão, dù đang đeo trên mắt hay tòng teng trên cổ không? Họ
có nghễng ngãng nghiêng tai bên này bên kia để nghe cho rõ hoặc cứ hỏi đi hỏi lại
một chữ không? Họ có kêu TV mờ, sách báo chữ nhỏ quá, màu sắc không rõ ràng như
xưa không? Họ có bước đi từng bước chầm chậm, loạng choạng, lê chân trên mặt đất
như chân đã mọc dài ra và dễ bị vấp, bị trượt, bị té ngã không? Họ có kêu đau
lưng nhức mỏi thường xuyên không? Có bỏ quên chìa khóa, quên điện thoại nơi này
nơi kia tìm kiếm vất vả không? Thỉnh thoảng có quên tắt lò gaz, quên khóa cửa
nhà… không?
Để
ý coi họ còn thèm ăn uống không, ăn uống có còn biết ngon lành không hay sao
cũng được? Họ có chê món này cứng món kia khó nhai không? Ngủ có dễ không hay
trằn trọc loay hoay suốt đêm? Có còn ham đi đây đi đó, cà phê cà pháo với bạn
bè không? Có còn mê coi đá banh, tennis… như ngày xưa không hay chỉ thích ngồi
im một chỗ lúc nào cũng như đang im lặng lắng nghe, nhớ nghĩ đâu đâu…hoặc ôm TV
suốt ngày rồi nhầm tưởng cảnh tượng trong phim ảnh là sự thật ngoài đời?
Để ý coi họ có đã bắt đầu thở hồn hển nặng nhọc… khi leo cầu thang trong căn nhà quen thuộc của mình không? Họ có bắt đầu thức giấc tiểu đêm nhiều lần, có dễ bị dị ứng khi ăn một món ăn quen thuộc? có bị bón phải rặn hì hục vất vả không?…
Tóm
lại, quan sát kỹ một chút sẽ thấy những thay đổi đó và tốc độ thay đổi ngày
càng nhanh.
Già
thiệt rồi!
Một
ông lão than thở: “Các lão bằng hữu ơi, cần phải ghi nhớ chúng ta đều là những
con người của cái thế hệ cuối cùng hiếu thuận với cha mẹ, lại cũng là những con
người của cái thế hệ đầu tiên bị con cái bỏ rơi”. Ngậm ngùi quá đỗi! Vì đâu nên
nỗi?
Bởi vì thế hệ trước kia sống trong nền văn hóa đề cao “đạo hiếu”, học Quốc văn giáo khoa thư, học Nhị thập tứ hiếu, gia đình “tứ đại đồng đường”, xóm làng gần gũi, dư luận buộc ràng, nay thì đời sống đã khác: gia đình hạt nhân, nhiều cặp ly hôn ly dị, single mom, single dad v.v…, nhiều gia đình chỉ có một con duy nhất làm sao gánh nổi ông bà nội ngoại hai bên? Rồi đây các thế hệ già sẽ được nuôi trong nhà dưỡng lão (nursing home), nên ngay bây giờ phải coi chuyện “con cái bỏ rơi” là chuyện bình thường, có hiếu thuận là thỉnh thoảng con cái nhớ mà đến thăm đôi khi.
Có
nhiều cách để giúp cha mẹ già được vui:
·
Dành thời gian ngồi bên cha mẹ, nhắc những chuyện xưa, hỏi chuyện tuổi thơ của cha mẹ, chuyện học hành, chuyện chọn nghề, chuyện tình cảm của họ… để họ có cơ hội kể lại một cách hào hứng, nhiều khi lặp đi lặp lại cũng nên ân cần lắng nghe;
·
Nhắc những ngày còn thơ của mình, những khó
khăn gian
khổ của gia
đình như một cách
tỏ lòng
biết ơn, rằng nhờ họ mà
mình có được ngày nay;
·
Sưu tầm những hình ảnh kỷ niệm của gia đình qua nhiều giai đoạn, những hình
ảnh thuở còn thơ của con
cháu, dán vào một album để cùng coi chung cả nhà hoặc làm một
“triển lãm bỏ túi” gợi nhớ những kỷ niệm:
“ngày này năm xưa em còn bé tí teo”…;
·
Thỉnh thoảng dành thì giờ đưa cha mẹ đi thăm những nơi nhiều kỷ niệm của họ, mái
trường xưa, căn nhà cũ dù đã đổi thay,
những bà
con lâu ngày chưa gặp nơi này nơi khác, những bạn bè thuở ấu thơ kẻ mất người còn…;
·
Thỉnh thoảng tổ chức những buổi họp mặt gia đình, đặc biệt những ngày
Giỗ chạp, để con
cháu được nghe
ông bà kể chuyện xưa, kết nối bà con cô bác. Nếu có thể thì tổ chức họp mặt bạn bè
cùng lứa của cha mẹ ở một nơi phù hợp,
khoáng đãng, họ sẽ có cơ hội trò chuyện râm ran với nhau…;
· Sưu tầm những bản nhạc xưa, phim cũ mà họ yêu thích, giúp họ được nghe lại, xem lại… Kỹ thuật media bây giờ rất hiện đại, chịu khó giúp để tránh sự lọng cọng của cha mẹ già;
·
Sưu tầm các bài báo, hình ảnh… nếu có về thành
tích của cha mẹ trong
lãnh vực văn nghệ, thể thao,
nghề nghiệp v.v…
làm thành tập tư liệu để cùng xem với nhau, nhắc nhở những niềm hãnh diện xưa!
·
Giúp cha mẹ tham gia những buổi sinh hoạt của nhóm bạn già, câu lạc bộ, hội quán người cao tuổi, nhóm coi bóng đá, tennis, nhóm hát hò, ngâm thơ, thậm chí
nhóm bạn chơi tứ sắc, mạc chược, cờ vua, cờ tướng…;
·
Khuyến khích cha mẹ học một kỹ năng mới: ngoại ngữ, vi
tính, chơi games, biết dùng smartphone để chuyện trò,
nhắn tin,
biết xài
tablet ( cái “quẹt quẹt” này giúp biết đủ thứ chuyện trên
đời!)… Nhờ đó các
tế bào
não không bị rỉ sét, các nối kết thần kinh được hoạt hoá, sinh động. Ngày nay người ta biết tế bào
não rất nhu
nhuyến và có
thể sinh
sôi!
·
Khuyến khích cha mẹ gần gũi nhiều hơn với nhu cầu tâm
linh, nói với cha mẹ về nhân quả, luân hồi, thiên đàng, địa ngục… Thường nhắc những việc làm tốt đẹp của họ trước đây để thấy thanh
thản, an
vui… Khuyên cha mẹ đi chùa, đi nhà thờ… Giao lưu bạn đạo, học tập điều thiện, miễn là
không để rơi vào
mê tín dị đoan…
Bs. Đỗ Hồng Ngọc
Người Chị Dâu - Phương Lan
Ông tôi chỉ có 2 người con, 1 gái đầu lòng là cô Đoan, và 1
trai út là cha tôi. Cô Đoan lấy chồng sớm, sanh được 4 người con, nhưng chỉ
nuôi được 1, đó là anh Kính, anh họ tôi. Mấy người kia đều chết từ lúc mới lọt
lòng, hoặc còn rất nhỏ, nghe đâu tử vi của anh Kính có số khắc với huynh đệ. Vì
là con hiếm, được cha mẹ hết mực nuông chiều, muốn gì được nấy, nên Kính quen
thói xài tiền như nước, và tính tình có hơi độc đoán. Cô dượng tôi, tức là cha
mẹ Kính, cũng đã qua đời đã 6 năm rồi, kẻ trước người sau, chỉ cách nhau có vài
tháng. Kính thừa hưởng gia tài của cha mẹ để lại, dùng vốn liếng để đầu tư vào
nhà, đất, và mua bán bất động sản, kiếm lời. Cha tôi 30 tuổi mới lập gia
đình. Hai ông bà chỉ sanh độc nhất có 1 đứa con là tôi. Cha mất sớm, khi tôi
mới lên 6 tuổi, mẹ tôi ở vậy nuôi con. Ông nội vẫn cấp dưỡng tiền bạc cho mẹ,
để nuôi tôi, cho tới khi tôi trưởng thành, sau đó thì ngưng, vì ông muốn tôi tự
lập. Ông chỉ làm cố vấn, chỉ bảo kinh nghiệm, khuyên bảo, rèn luyện cho
cháu phải tự vươn lên bằng chính đôi tay của mình.
Tôi không có số học
hành, nên lao vào thương trường, làm đủ nghề để kiếm sống. Tôi kiếm cũng đủ ăn
và nuôi mẹ. Nhưng mấy lúc gần đây, vì thời cuộc, và chiến tranh leo thang, công
việc làm ăn của tôi bị trở ngại. Đang lúc bối rối, vì không biết xoay ở đâu ra
một món tiền lớn để ứng trước cho chủ thầu, thì tôi bỗng nhận được thơ của anh
Kính, mời tôi lên Đà Lạt chơi, nói là để khoe căn biệt thự anh mới tậu năm
ngoái, và mới hoàn tất việc sửa sang.
Lá thơ của anh làm
tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi rất ít khi liên lạc, chỉ thỉnh thoảng mới gặp nhau
trong những dịp giỗ Tết. Tôi được biết là anh mới lấy vợ, lập nghiệp trên Đà
Lạt, và có một cuộc sống khá dư dả. Trong lúc tôi đang cần tiền để làm ăn, lời
mời của người anh họ có thể là một cơ hội tốt cho tôi mượn tạm ít tiền, biết
đâu? Nghĩ vậy, tôi vui vẻ nhận lời. Anh Kính đích thân đi đón tôi tại phi
trường và đưa về nhà. Vừa dừng xe trước cổng, anh đã gọi lớn vào bên trong:
- Mình ơi, ra chào
khách! Chú em tôi đã tới đây rồi. Đi đường xa, chắc chú ấy đang đói bụng... Ở
nhà mình đã lo chuẩn bị cơm nước xong chưa?
Sự nhiệt tình và
lòng hiếu khách của anh làm tôi cảm động. Cánh cửa bật mở, và 1 người thiếu phụ
từ bên trong thong thả bước ra, nhìn tôi cúi đầu chào. Tôi nhìn người chị dâu
lần đầu tiên gặp mặt. Bà ta trông rất trẻ, chắc chưa tới 30 tuổi, dáng người mảnh
mai, nước da trắng xanh, nét mặt thanh tú khá đẹp, nhưng phảng phất có nét
buồn. Đôi mắt trong suốt, nhưng u uẩn như chứa cả một trời tâm sự, và suối tóc
đen óng ả buông xõa xuống đôi vai gầy, tạo cho bà một vẻ thanh nhã, quí
phái. Bà ta đứng bên ông chồng to béo cục mịch, trông thật là tương phản,
chẳng cân xứng tí nào. Trông họ giống như một đôi đũa lệch, và trên nét mặt của
cả hai, đều không có vẻ rạng rỡ của một cặp đôi hạnh phúc... Một con sóc vụt
chạy ngang, làm tôi giật mình, gián đoạn dòng suy tưởng. Sực nhớ là chưa chào
hỏi bà chủ nhà, tôi vội vã bước tới, nghiêng mình đáp lễ, miệng cười thật tươi:
- Chào chị, hân
hạnh được biết chị. Hôm nay thời tiết tốt quá, chị khoẻ chứ?
Bà ta chỉ lặng lẽ
gật đầu, nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu, và không nói một lời, không cả một cái
mỉm cười xã giao, thái độ lạnh lùng, khác hẳn với sự vồn vã của người chồng.
Lợi dụng lúc ông ta đánh xe đi cất, bà mới nói thật nhanh:
- Tốt hơn hết chú
nên rời khỏi đây ngay, không nên ở lâu. Chuyến bay Đà Lạt - Sài Gòn sớm nhất sẽ
cất cánh vào lúc 9 giờ sáng mai...
Tôi vô cùng sửng
sốt, câu đuổi khách trắng trợn của bà ta làm tôi cảm thấy bị xúc phạm nặng nề.
Mặt nóng lên vì giận, tôi cau mày nhìn thẳng vào mặt bà ta, nói gằn từng tiếng
một, giọng thách thức:
- Anh Kính viết
thơ, nhiệt tình mời tôi tới chơi. Sau một chuyến đi xa như vậy, tôi không nghĩ
rằng tôi sẽ về ngay ngày mai.
- Tôi làm vậy là
chỉ vì chú. Anh Kính...
- Bà nói cái gì
thế? Tôi làm sao?
Kính đã trở lại, và
nghe được câu sau cùng. Bộ mặt đang tươi cười của hắn bỗng dưng sa sầm, trông
rất dữ tợn. Kính kéo vợ vào bên trong. Chẳng biết 2 người bàn tính, cãi cọ ra
sao, mà chỉ một lúc sau, bà ta trở ra, mặt tái mét, và đôi mắt đỏ hoe vì khóc:
- Ông ấy bảo tôi ra
xin lỗi chú.
- Chị khỏi phải xin
lỗi. Tôi thật sự không hiểu gì cả.
- Khi chú hiểu thì
đã quá muộn. Âu cũng là do số trời... Bà ta thở dài:
- Thôi tôi phải
vào, kẻo ông ấy nghi.
Nói xong bà ta quày
quả đi ngay vào nhà. Tôi đứng như trời trồng, không biết nên có thái độ nào,
thì Kính quay trở ra, nét mặt đã vui vẻ lại. Hắn vỗ vai tôi thân mật:
- Tôi cũng phải xin
lỗi chú vì thái độ kém lịch sự của vợ tôi. Bà ấy sức khoẻ không được tốt, nên
tánh nết khó chịu. Chẳng riêng gì chú, bà ta không muốn bất cứ ai tới đây,
khuấy động sự yên tĩnh của ngôi nhà này.
- Thật sự em không
ngờ, nếu biết vậy, em đã không tới... Thôi, để khỏi làm phiền chị ấy, sáng mai
em sẽ rời khỏi nơi đây.
Kính hốt hoảng:
- Ấy đừng làm vậy,
chú làm vậy là không nể mặt tôi. Để tâm làm gì đến lời nói của một người
bệnh tâm thần? Tôi sẽ buồn lắm nếu chú về ngay ngày mai, tôi có bao nhiêu dự
tính cần bàn với chú, đừng để cho một mụ đàn bà xen vào, làm hỏng hết.
Nói xong, Kính lảng
sang chuyện khác, hắn bông đùa vài câu về đàn bà, và kết luận:
- Cứ sống độc thân
như chú mà khoẻ. Có vợ vào là rắc rối, mất hết tự do, đôi khi mất cả anh em, bè
bạn.
Kính còn nói nhiều
nữa, chung quy cũng chỉ vì mục đích cố giữ tôi lại. Thái độ của Kính rất khẩn
khoản, nhiệt tình, gần như năn nỉ, làm tôi khó lòng từ chối. Vả lại, tôi cũng
tò mò muốn biết xem lý do tại sao bà ta muốn đuổi khách? Bà ta làm vậy là có ý
gì? Bà ta chưa hề biết ý định vay tiền của tôi, chưa ai biết hết, kể cả Kính.
Vậy thì tại sao? Tướng mạo của bà ta trông nhu mì hiền lành, không có vẻ gì là
nham hiểm, bần tiện cả, cũng không có hành động nào tỏ ra là mắc bệnh tâm thần,
như Kính nói. Chắc là phải có nguyên do bí ẩn nào đây, nhất định tôi sẽ tìm
hiểu. Nghĩ vậy, tôi gật đầu:
- Thôi được rồi, em
sẽ ở đây chơi đúng 1 tuần như đã dự định.
Kính mừng rỡ xiết
chặt tay tôi, cả hai cùng đi vào nhà. Căn phòng Kính dành cho tôi rất đẹp, với
đầy đủ mọi tiện nghi. Nhưng sự tiếp đãi ân cần của Kính, những bữa ăn thật ngon
do bà bếp giỏi nấu nướng, cũng không bù lại cái cảm giác khó chịu của tôi, mỗi
khi phải đối diện với bà chị dâu kỳ quái. Tôi sợ đôi mắt nghiêm khắc của bà ta
mỗi khi nhìn tôi, nó nửa như thương xót, nửa như muốn cảnh báo một điều gì, mà
tôi không thể đoán.
Phải công nhận Kính
rất có quyền uy với vợ. Bà ta sợ chồng như sợ cọp, chỉ một cái lừ mắt của Kính,
là bà ta vội cúi ngay đầu xuống, mắt lấm la lấm lét, và mặt xanh đi vì sợ. 2
người như ngầm che giấu một điều gì bí mật chỉ có họ biết với nhau, còn tôi hoàn
toàn là một người ngoại cuộc. Trước sau, chị ấy vẫn không nói gì thêm với tôi,
ngoài những câu chào hỏi thông thường. Trái với sự lãnh đạm của bà vợ, sự thân
mật giữa tôi và Kính càng ngày càng trở nên khắng khít. Ban ngày, Kính thường
đưa tôi đi dạo quanh vùng, và buổi tối cũng hay vào phòng tôi nói chuyện. Một
lần, hắn thân mật hỏi han về mẹ tôi, và công việc làm ăn của tôi. Không giấu
diếm, tôi kể hết, Kính nghe xong cười khà khà:
- Vậy là chú rất
cần tiền, sao để tới bây giờ mới nói?
- Em rất ngại khi
phải mở miệng nói đến chuyện vay mượn.
- Chú chỉ khách
sáo, anh em trong nhà phải giúp đỡ nhau chứ. Chuyện nhỏ, có gì mà phải bận tâm,
500 ngàn đâu phải là một món tiền lớn, anh dư sức cho chú mượn. Anh sẽ đưa tiền
cho chú, trước khi chú rời khỏi nơi đây.
Tôi thở phào sung
sướng, không ngờ mọi việc lại xuôi rót, dễ dàng như vậy. Tôi nhìn ông anh họ
hào phóng với một vẻ biết ơn:
- Em chỉ mượn tạm
một thời gian ngắn. Khi lãnh được tiền của chủ thầu, em sẽ hoàn trả anh ngay.
- Không việc gì
phải vội vã cả. Vả lại nửa triệu đồng đâu có là bao, so với cái gia tài đồ sộ,
ông sắp chia cho anh em mình. Nhất là chú, chú là cháu đích tôn, người thừa kế
chính thức, còn tôi chỉ là cháu ngoại...
- Em không tin là
ông phân biệt cháu nội với cháu ngoại. Cháu nào mà chẳng là cháu, là máu huyết
của ông?
- Tôi cũng hy vọng
thế.
Chúng tôi vừa đi
vừa nói chuyện về người ông mà tôi rất yêu kính. Nhưng Kính chỉ cười mỉa mai,
giọng miệt thị:
- Lão già keo kiệt,
gần xuống lỗ rồi mà chưa chịu chia của cho anh em mình. Giữ làm gì chứ, định
đem qua thế giới bên kia chắc?
- Anh đừng nói thế.
Tôi cau mày:
- Ông có lý do của
ông, ông muốn con cháu tự học lấy kinh nghiệm sống, và tự lực cánh sinh bằng
chính đôi tay của mình, không ỷ lại vào gia sản của ông bà để lại..
- Cũng tùy trường
hợp chứ. Xem kìa, có ông nội nào, tiền của vứt đi không hết, mà để con cháu
sống thiếu thốn, nợ nần tứ tung như vậy? Thật đáng xấu hổ... Nhưng chú đừng lo,
năm nay ông đã hơn 80 rồi, trước sau gì cũng phải chia của cho anh em mình.
- Thôi đừng đề cập
đến việc chia tài sản nữa, chúng ta nói chuyện khác đi.
- Vậy tôi đưa chú
đi dạo ở khu rừng phía sau nhà nhé? Nơi đó cảnh đẹp và yên tịnh lắm.
Chúng tôi đi trên
một cây cầu bằng gỗ mục, bắc ngang một giải đất ẩm. Dưới cầu, chỉ có giòng nước
nhỏ, chảy ri rỉ quanh những cây dại mọc xen kẽ giữa những tảng đá. Kính nói:
- Nơi đây trước
kia, có lẽ là một con suối hay nhánh sông nhỏ, nhưng thời gian qua đã bị cạn
nước, rồi bị đất bồi lấp bằng, nên người ta cũng chẳng nghĩ đến việc sửa chữa
cây cầu làm gì.
Qua khỏi cây cầu,
một khu rừng hiện ra, thật hùng vĩ với những cây cổ thụ già trên trăm tuổi.
Rừng có vẻ âm u, vì ánh nắng không rọi tới mặt đất.
Suốt cả buổi sáng
dành cho việc thăm thú này, Kính đã chỉ cho tôi xem những cụm lan rừng mọc ký
sinh trên những cành sồi, và rất nhiều giống chim lạ. Sau cùng, chúng tôi cũng
về tới nhà, sau khi leo một cái dốc khá cao, vì căn biệt thự tọa lạc trên đỉnh một
ngọn đồi, phía dưới là thung lũng, không có nhà cửa chi cả. Kính đưa tôi đi
vòng ra sau nhà, trỏ cho tôi thấy:
- Đứng ở đây có thể
nhìn bao quát khắp vùng. Chú nhìn cái đầm nước phía dưới kia, nước trong xanh,
in bóng trời mây, trông thật thanh bình. Vào những đêm trăng tỏ, mặt đầm phản
chiếu ánh trăng, sáng ngời như gương, đẹp như cảnh thần tiên. Tôi đặt tên cho
nó là Nhật Nguyệt đầm, chú thấy đúng nghĩa không?
Tôi ngắm nghía, và
gật đầu, xuýt xoa khen đẹp. Kính nói với một vẻ hãnh diện:
- Tôi thích căn nhà
này lắm. Ở đây biệt lập với chung quanh, sống giữa thiên nhiên, mình có cảm
tưởng như người thoát tục.
Tôi tới gần bìa
đất, ngó xuống vực sâu đầy đá tảng ở phía dưới, một cây sồi già mọc lên từ đáy
vực, thân cây vươn lên gần sát khu đất cao, chỗ chúng tôi đang đứng. Ngọn cây
xòe ra như cái tán, chia cành ra tứ phía, một cành chĩa vào trong, cách bìa đất
chỉ vài sải tay.
- Sao anh không cho
rào lại? Để trống thế này nguy hiểm quá. Em ước lượng chỗ này sâu dễ tới gần
chục thước, phía dưới lại toàn là đá tảng, vô ý té xuống, chết là cái chắc.
- Rào làm chi cho
mất đi cái vẻ thiên nhiên hoang dã? Vả lại đây là đất tư của tôi, ngoài
tôi ra, có ai héo lánh tới nơi đây làm gì?
Kính nói và nhìn
đồng hồ:
- Đã tới giờ cho
chó ăn, chú có muốn xem con chó cưng của tôi không?
Tôi gật đầu, và đi
theo anh. Kính mở cổng sau, đưa tôi vào bên trong. Chúng tôi bước xuống vài bậc
xi măng, qua cái sân rộng trải sỏi, tôi thấy 1 cái nhà chó, rộng như một căn
phòng, cao gần 2 thước, mái lợp tôn, phía trước có một cái cửa 2 cánh, làm bằng
những chấn song thưa chạy suốt dọc chiều dài, nên căn phòng trông có vẻ sáng
sủa và thoáng khí. Bên trong, thấp thoáng bóng một con vật to lớn như con bê,
lông màu đỏ rực.
- Lại đây!
Kính nói:
- Tôi sẽ cho chú xem một con chó quí, đó là con chó ngao, giống Tây Tạng. Nó có sức mạnh bằng một con sư tử, và rất hung dữ, nó có thể tấn công và hạ gục một con bò mộng. - Anh nuôi chi một con vật khủng khiếp như vậy?
- Nó hung dữ, nhưng
biết nghe lời chủ. Tôi rất cần nó, cơ ngơi này rộng lớn quá, lại ở vào nơi
hoang vu, có nhiều thú dữ, có nó canh chừng lúc đêm hôm, tôi an tâm, chẳng phải
lo sợ chi cả. Chú có muốn xem cho rõ thì lại đây!
Tôi làm theo. Con
vật thấy người lạ tới gần, hộc lên một tiếng dữ dội, làm tôi giật nẩy người lùi
lại. Kính vội trấn an tôi, và nói với con vật:
- Boo Boo ngoan
nào! Đừng làm cho chú em của ta sợ đấy chứ?
Lạ thay, con vật
đang hung hăng, bỗng trở nên hiền lành, ngoan ngoãn nằm yên cho chủ nó vuốt ve,
nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc tôi bằng những tia nhìn cảnh giác. Bây giờ tôi mới
có dịp ngắm nó thật kỹ. Đó là một con chó, giống như bao nhiêu con chó khác, nhưng
to lớn hơn nhiều. Trông nó thật oai vệ với cái bờm xù ra quanh cổ như bờm con
sư tử, chỉ khác là bộ lông nó màu hung đỏ, và cặp mắt cũng đỏ rực. Tôi thò tay
qua chấn song, toan sờ vào cái bờm của nó, nhưng Kính hốt hoảng kéo giật lại:
- Ấy chớ, đừng làm
vậy nguy hiểm lắm. Con Boo chưa quen với sự hiện diện của chú, phải mất một
thời gian lâu lắm, mới được nó chấp nhận là bạn, và cho phép tới gần. Tôi mua
nó ở Tây Tạng, trong một chuyến du lịch, khi nó mới sanh được vài tuần, chỉ to bằng
con mèo. Tôi quí nó lắm, đi đâu cũng đem theo. Tôi coi nó như con, ngược
lại nó cũng coi tôi vừa là cha, vừa là mẹ của nó, con Boo rất biết vâng lời.
Kính vừa nói vừa
vuốt ve con vật, và cười với nó:
- Boo Boo đói bụng
rồi phải không? Để ta lấy thức ăn cho con nhé?
Như hiểu tiếng
người, nó ngoắc đuôi mừng rỡ. Kính đứng lên, mở cửa căn phòng kế bên, nơi có
cái tủ lạnh đựng thức ăn cho chó. Kính mở tủ lạnh, lấy ra một tảng thịt bò tươi
còn dính cả xương, quăng cho con vật. Nó vồ ngay lấy, đem vào góc phòng, ngồi gậm
một cách khoái trá, máu tươi nhỏ giọt hai bên mõm. Tôi kêu lên sửng sốt:
- Ghê quá, anh nuôi
nó bằng thịt sống à?
Kính mỉm cười, gật
gù:
- Thỉnh thoảng
thôi, lâu lâu mới đãi nó món nó thích. Thường thì tôi nuôi nó bằng thức ăn nấu
chín. Con Boo ăn rất khỏe, nó ăn tất cả những gì tôi cho nó, nhưng món khoái
khẩu nhất của nó vẫn là thịt tươi. Boo thích ăn thịt những con vật nó bắt được như
chồn cáo, thỏ, gà rừng, đôi khi cả chim muông nữa...
- Trời! sao anh
không cản nó đừng giết hại những con vật vô tội đó?
- Làm sao cản được,
thú tính là do trời sinh mà.
Kính nói với vẻ mặt
thản nhiên, và hãnh diện khoe thành tích đi săn của con thú cưng của hắn. Tôi
rùng mình nghĩ thầm, bản năng hiếu sát của con vật khổng lồ và hung dữ này, nếu
không được kềm chế, mà cứ để buông thả, dung dưỡng cho tự do phát triển, thế
nào cũng có ngày nó sẽ gây ra đại hoạ. Nghĩ vậy, nhưng tôi không nói ra, sợ
Kính phật lòng, việc riêng của hắn, chẳng nên xía vào, bất quá mình chỉ ở chơi
vài ngày, có ở đây luôn đâu mà lo lắng? Tự nhủ như vậy xong, tôi nói vài câu vô
thưởng vô phạt, hoặc chỉ ừ hữ cho qua chuyện. Bây giờ, Kính đang ngồi trên cái
gốc cây lớn đã bị đốn cụt ngọn và cưa phẳng lì như một tấm thớt, ngay trước
chuồng chó.
Hắn ngắm nhìn con
vật đang ngốn ngấu gặm thịt sống một cách ngon lành, rồi quay sang tôi, mỉm
cười:
- Mình cũng nên
kiếm cái gì bỏ bụng đi, cuốc bộ từ sáng đến giờ, chắc chú cũng mệt và đói rồi,
phải không?
Tôi gật đầu, hắn
phủi áo đứng lên, kiểm soát cái then, gài cửa cẩn thận, rồi mới cùng tôi vào
nhà. Chúng tôi dùng bữa trưa ngoài vườn, không có mặt bà chị dâu. Mấy hôm nay,
bà ta có vẻ bệnh, và rõ ràng là cố ý tránh mặt tôi. Những ngày nghỉ rồi cũng qua
nhanh chóng. Đêm cuối cùng, trước khi tôi trở về Sài Gòn lo công việc làm ăn,
Kính vào phòng, đưa cho tôi cái ngân phiếu nửa triệu đồng, và rủ:
- Đêm nay là đêm
rằm, trăng sáng đẹp lắm, chú có muốn ra ngoài, đi dạo với tôi một lát không?
Tôi nhìn đồng hồ,
đã hơn 10 giờ khuya. Giờ này mọi người đã đi ngủ cả, tôi cũng lên giường từ
lâu, nhưng cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được. Một cảm giác hồi hộp, lo sợ
không đâu cứ dấy lên làm tôi bức rức khó chịu, như người ngộp thở. Tôi đang có ý
định ra ngoài một lúc cho thoáng, nghe Kính rủ, thì đứng lên ngay. Tôi xỏ chân
vào giày, vơ vội cái áo lạnh khoác lên người, rồi theo hắn ra cửa. Kính
nói nhỏ:
- Khe khẽ thôi,
đừng để mọi người thức giấc. Bà ấy thấy tôi đưa chú ra ngoài lúc ban đêm, thế
nào cũng cản.
Rồi hắn nhún vai
một cách bực bội:
- Đàn bà đầu óc nhỏ
như cái đồng xu, mà cứ hay xen vào việc riêng của chồng. Tôi không bao giờ để
cho bà ấy cản trở những việc làm của tôi.
Chúng tôi rón rén
đi thật nhẹ ra phía sau nhà. Quả thật, một cảnh đẹp tuyệt vời hiện ra ngay
trước mắt. Núi rừng đêm trăng trông thật thơ mộng và huyền bí. Xa xa, phía dưới
kia, cái đầm nước phản chiếu ánh trăng sáng ngời, trông như bầu trời thứ hai với
mặt trăng nơi đáy nước, và ngàn sao lấp lánh... Đêm yên tĩnh, không một tiếng
động, ngoại trừ tiếng côn trùng kêu rỉ rả, và thỉnh thoảng một con chim đêm bay
ngang, cất tiếng kêu ảo não. Tôi say sưa đứng ngắm, thấy đầu óc loãng ra trong
một cảm giác lâng lâng khó tả. Kính ôm vai tôi, mỉm cười:
- Tôi nói có sai
đâu, đẹp quá phải không? Những người ở thành phố như chú làm sao thấy được cảnh
này.
Bỗng một cơn gió
mạnh thổi tới, Kính rùng mình xuýt xoa kêu lạnh, rồi bảo:
- Tôi phải vào nhà
lấy cái áo len. Chú cứ ở đây chờ, đừng đi đâu cả, tôi sẽ trở lại ngay.
Tôi gật đầu, châm
một điếu thuốc hút cho ấm người, thích thú nhìn mặt trăng đang chui vào một đám
mây, rồi lại từ từ ló ra, làm quang cảnh chợt tối, rồi lại chợt sáng, chỉ trong
một thoáng. Kính cũng chắc lưỡi hít hà khen đẹp.
Trước khi xây lưng
đi vào nhà, hắn còn nói thêm một câu:
- Chú cứ ngắm cho
mãn nhãn đi, sẽ chẳng có dịp cho chú được thấy lại cảnh này một lần nữa đâu.
Tôi cũng chẳng nhớ
là đã đứng đây bao lâu, cho tới khi tôi nghe có những tiếng động như tiếng chân
bước lạo xạo trên sỏi. Tưởng Kính trở ra, tôi quay lại thì... Trời ơi, không
phải Kính, mà là con chó ngao, con quái vật khổng lồ. Nó đang đủng đỉnh đi tới,
vừa đi vừa chúi mũi sang hai bên, đánh hơi khìn khịt, rồi ngẩng lên, nó đã thấy
tôi... Dưới ánh trăng sáng tỏ, đôi mắt của nó rực lên như hai đốm lửa. Trong
một thoáng, người tôi như tê đi vì sợ, tôi đứng yên, bất động. Con vật cũng
dừng lại, nhìn tôi chăm chú. Thoạt đầu nó có vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi bản năng
hiếu sát nổi dậy, nó hộc lên một tiếng dữ dội, thu mình lại trong tư thế rình
mồi. Tôi hốt hoảng nhìn quanh, chợt thấy bóng dáng của Kính thấp thoáng sau
cánh cổng, gần cái chuồng chó, tôi thét lên cầu cứu:
- Anh Kính, ra đây
nhanh lên! Con Boo...
Kính quay lại, điềm
tĩnh nói vọng lên:
- Con Boo đã ra
ngoài đó rồi chứ gì. Tôi thả nó ra đấy mà, tối nào tôi cũng thả chó ra để canh
nhà. Thường thường con Boo chẳng có việc gì làm nên buồn lắm. Nhưng đêm
nay thì khác, nó sẽ rất khích động được gặp chú, nó sẽ có dịp để khoe cái sức
mạnh tuyệt diệu của nó...
- Anh bảo nó về
chuồng ngay đi!
Tôi giận dữ nói:
- Tôi không thích
đùa kiểu đó.
- Tôi có đùa đâu?
Còn thích hay không, mặc chú. Ráng giữ mình cẩn thận nghe!
Nói xong, Kính cất
tiếng cười một cách đểu cáng, và thản nhiên xây lưng đi vào nhà, để mặc tôi một
mình phải đối phó với con vật hung tợn. Trong tay tôi không có một tấc sắt để
tự vệ, và tôi biết có kêu cứu cũng vô ích. Nơi đây rất xa nhà trên, và chung quanh
không có làng mạc, xóm giềng chi cả. Kính đã để lộ nguyên bộ mặt thật của hắn,
bộ mặt của một tên sát nhân ghê tởm. Bây giờ thì tôi hiểu, Kính cố tình
muốn giết tôi, để độc chiếm cái gia sản kếch xù do ông tôi để lại. Kính và tôi
đều là những người thừa kế hợp pháp. Nếu tôi chết đi, tất cả tài sản sẽ thuộc
về hắn. Trong vài giây, trí óc tôi làm việc rất nhanh, tôi nhớ lại tất cả, từ
việc hắn dụ tôi đến nhà, tới âm mưu giết người, ngụy tạo dưới một tai nạn. Hắn
sẽ khai với nhà chức trách rằng, tại tôi tự ý ra ngoài một mình lúc ban đêm, và
bị chó tấn công vì tưởng lầm là kẻ gian. Dĩ nhiên là hắn bị nghi ngờ, nhưng
nghi ngờ, chứ không thể buộc tội, vì không có bằng chứng nào cả.
Bây giờ tôi đang
đối diện với con chó ngao khổng lồ. Nó đứng chắn ở đường đi vào nhà, lối
thoát duy nhất của tôi, vì phía sau là vực thẳm. Nó đứng cách tôi chỉ vài chục
thước, người và vật nhìn nhau thủ thế. Bắt chước Kính, tôi cố lấy giọng êm dịu
phủ dụ nó:
- Boo Boo ngoan
nào. Ta là em của chủ ngươi, không phải kẻ gian. Hãy để yên cho ta nghe! Còn
mi, về chuồng, về chuồng đi, chóng ngoan...
Để trả lời, nó nhe
nanh gầm gừ, chân cào đất lia lịa, làm sỏi đá văng tung toé. Tôi hốt hoảng né
tránh, trong đầu chợt nẩy ra một kế... Tôi cởi phăng cái áo khoác đang mặc trên
người, bung ra ném về phía con vật, toan trùm đầu nó, và trong lúc nó đang lúng
túng để gỡ ra, thì tôi sẽ chạy thật nhanh qua nó, vòng ra phía trước, lên nhà
trên đập cửa kêu cứu ầm ỹ, chắc chắn người trong nhà sẽ chạy ra cứu tôi. Nhưng
rủi thay, vì run quá, nên tôi ném trật, cái áo bay tới, rớt đánh xoạch ngay bên
cạnh con chó. Nó điên tiết ngoạm ngay lấy xé nát, rồi gầm gừ tiến về phía tôi.
Tôi lùi dần từng bước, từng bước... rồi dừng lại, không lùi được nữa, tôi đã
tới sát bìa đất. Đây là bãi đất trống, không có chỗ nào có thể ẩn nấp được cả.
Sau lưng tôi là vực thẳm, và trước mặt tôi là con thú dữ... Nó đã tới gần lắm,
chỉ cách tôi một khoảng chừng 5, 6 thước...
Trong một giây, tôi
nhắm mắt lại, cầu nguyện. Thế rồi như một tia chớp, tôi nhớ ngay đến cây sồi...
Cây sồi già mọc lên từ đáy vực, chỉ cách bìa đất nơi tôi đang đứng một quãng
ngắn, ngọn cây cao hơn mặt đất cả mấy thước. Chỉ cần nhảy qua một khoảng cách
cỡ 5, 6 sải tay, là có thể níu được cái cành khá lớn gần nhất. Đó là một
hành động liều lĩnh và vô cùng nguy hiểm, bởi vì hụt tay là sẽ rơi xuống vực,
chết tan xác. Nhưng chẳng thà chết vì té vực, chắc cũng mau chóng, và ít ghê
rợn hơn là phải chết dưới móng vuốt và hai hàm răng nhọn hoắt của con dã thú
này. Nó sẽ xé xác tôi thành trăm mảnh, và cái chết chắc chắn sẽ vô cùng khủng
khiếp.
Không còn chọn lựa
nào hơn, tôi đánh liều nhún người xuống lấy đà, phóng vút qua khoảng không, chỉ
trong nháy mắt. Soạt một cái, một vật cứng sượt ngang qua mặt, đó là cái cành
cây, tôi vội tóm ngay lấy bằng cả hai tay. Thân hình tôi treo lơ lửng ở trên không,
như người đang làm xiếc. May sao, dưới sức nặng chưa tới 50 kí của tôi, cành
cây oằn xuống, nhưng không gãy. Tôi quặp hai chân ôm thật chắc, rồi mới từ từ
tụt xuống tới cái chạc ba, và ngồi xuống. Bấy giờ tôi mới thở được, và cảm thấy
đau, rờ thử thấy nửa mặt bên trái sưng vù và có tiếng lạo xạo bên trong, chắc
là những mảnh xương vụn, có lẽ tôi bị dập xương gò má, nhưng may không chảy
máu. Tôi thở hổn hển muốn đứt hơi, và tim đập mạnh tưởng sắp vỡ lồng ngực, tôi
đã thoát chết chỉ trong gang tấc. Thật không uổng công tập luyện những ngày còn
là học trò ở trung học, tôi đã chiếm giải vô địch môn nhảy xa. Nhưng một phần
cũng do trời cứu, và số tôi chưa đến lúc tận. Qua phút định thần, tôi đưa mắt
nhìn lên bờ. Con Boo đang lồng lộn đi lại một cách tức tối. Đã mấy lần nó chờn
vờn định phóng tới, nhưng rồi lại không dám, nó cũng sợ bị rơi xuống vực. Boo
nhìn kẻ thù đang ở trên cây, hếch mõm tru lên từng hồi, nghe rởn cả gai ốc.
Trên cái chạc ba,
sau khi lại hồn, tôi lần mò tìm được một cành khác cao hơn, nhưng vững chắc và
xa con chó hơn. Tôi cẩn thận cởi dây lưng, cột người tôi vào cành cây, đề phòng
đôi lúc sơ ý có thể bị hổng chân rơi xuống. Tôi ngồi im chờ sáng, hy vọng bác
làm vườn sẽ tới sớm và cứu tôi. Trên bờ, con chó đã thôi sủa, nhưng nhất định
không chịu dời đi chỗ khác. Nó đi qua, đi lại canh chừng, và cũng chờ sáng, để
giao kẻ gian cho chủ nó.
Bây giờ đã quá nửa
đêm, sương xuống hơi nhiều và trăng cũng đã xế. Còn tới 4 giờ đồng hồ nữa, mới
tới sáng. Những phút giây chờ đợi mới dài làm sao. Tôi lạnh run và khát nước
kinh khủng. Tay chân tôi bắt đầu tê cóng vì lạnh và ngồi quá lâu một chỗ. Nhưng
tôi không dám cử động mạnh, sợ tuột tay té xuống vực sâu ở phía dưới.
Sau cùng, bình minh
cũng tới, bầu trời sáng dần và trở thành màu xám nhạt. Khi những tia mặt trời
đỏ ối đầu tiên bắt đầu ló dạng nơi chân trời phía đông, và chim chóc bắt đầu ra
khỏi tổ, tôi nghe có tiếng mở cổng. Nhưng không phải bác làm vườn, mà là Kính,
ông anh họ của tôi, tên sát nhân ghê tởm. Hắn ra coi tình hình, xem tôi đã chết
chưa, và chết ra sao? Cảnh tượng trước mặt làm hắn ngạc nhiên, Kính trông thấy
cái áo khoác của tôi nằm trên mặt đất. Tưởng tôi té xuống vực, hắn thận trọng
bước tới gần bờ, cúi xuống nhòm. Kính không mảy may chú ý đến cây sồi già, và
bị những cành lá rậm rạp che khuất, nên hắn không nhìn thấy tôi. Nhưng
con Boo thì trái lại, nó biết rất rõ tôi đang ở đâu. Boo ngẩng lên, sủa dữ dội
để báo cho chủ biết là kẻ thù đang ở trên đấy. Nhưng Kính không hiểu, nghe
tiếng sủa thì giật mình quay lại, thấy điệu bộ hung hăng của con vật, hắn tưởng
nó sắp tấn công mình, nên sợ hãi la lên:
- Boo, im ngay!
Không nhận ra ta là chủ mi hay sao?
Con Boo rít lên một
cách tức tối, mắt vẫn không rời con mồi, và càng sủa hăng, tiếng nó ồm ồm nghe
thật kinh khiếp. Bây giờ, Kính đứng xây lưng về phía tôi, đối diện với con thú
cưng của hắn, con thú to khủng, thích ăn thịt sống, máu tươi, con thú được hắn
huấn luyện để giết người... Nó đang nhìn lom lom về phía cái cây rậm rịt có tôi
đang ẩn nấp, vừa sủa vừa nhe nanh gầm gừ. Tôi hiểu rất rõ hành động của
con vật, nó chỉ muốn nhắm vào tôi. Nhưng Kính lại lầm tưởng con chó nổi điên,
phản chủ, hắn nhớn nhác nhìn quanh, tìm lối thoát.
Ngồi ở trên cây mỏi
quá, tôi hết sức nhẹ nhàng, thận trọng duỗi một chân xuống, đong đưa nhè nhẹ
cho đỡ tê. Cử chỉ đó làm cho con Boo tưởng bị khiêu khích, nó hộc lên một tiếng
dữ dội, quật đuôi xuống đất, nhảy dựng lên như sắp sửa vồ mồi. Kính sợ hãi rú
lên, ôm đầu chạy giật lùi…
Mọi việc xảy ra chỉ
trong chớp mắt, tôi nghe một tiếng thét kinh hoàng của hắn, và tôi ngất đi vì
sợ.
Những việc xảy ra
sau đó, tôi chỉ nghe kể lại: Kính hụt chân rơi xuống vực thẳm, bể đầu, gãy dập
xương sống, chết tức khắc. Thiên bất dung gian, Kính chết vì chính âm mưu của
hắn đã sắp đặt định để giết tôi. Con chó ngao khổng lồ bị hạ gục bởi tất cả những
người làm trong nhà, họ dùng gậy gộc đập nó chết. Người ta đem tôi xuống, chở
đi bệnh viện. Tôi không bị thương tích gì trầm trọng, ngoài những vết trầy trụa
ở chân tay, và bầm dập nơi gò má, do cú nhảy va chạm làm vỡ vài mảnh xương nhỏ.
Thêm vào đó, tôi còn bị sưng phổi, do thân nhiệt xuống quá thấp, vì suốt đêm
chịu lạnh ở ngoài trời, và tâm thần xáo trộn, bất an vì quá sợ hãi. Phải
mất cả tháng, tôi mới bình phục. Bà chị dâu đi thăm tôi trong nhà thương. Nhìn
tôi bằng cặp mắt rất buồn, chị dịu dàng nói:
- Tôi đã làm hết
cách để ngăn cản chú không nên ở đây. Tôi biết âm mưu của Kính, nhưng không dám
nói thẳng với chú, vì sợ Kính biết được sẽ giết tôi chết. Bây giờ thì chú đã
tai qua, nạn khỏi rồi, tôi mới thực sự yên lòng. Còn chú, nhớ lo bảo
trọng, cầu ơn trên ban phước lành cho chú.
Nói xong, chị chào tôi ra về. Sau lần đó, tôi không bao giờ được gặp lại chị dâu tôi nữa. Sau này, nghe nói chị đi tu, quyết tâm xa lánh thế tục. Chị ẩn mình trong một nhà tu kín, âm thầm sống nốt quãng đời còn lại, không tiếp xúc, và không tiếp bất cứ ai tới thăm.
PHƯƠNG LAN